Khi nào thì viết i ngắn, khi nào thì viết y dài? Xin giới thiệu một số quy định tạm thời trong cuốn sách nói trên (được quán triệt cho tất cả các cán bộ biên tập thuộc ngành giáo dục):
- Nguyên âm trong các âm tiết mở, theo quy định là phải viết i ngắn: kĩ (thuật), lí (thuyết), mĩ (thuật), hi (vọng), (nghệ) sĩ....
- Nguyên âm đứng một mình (âm tiết độc lập) thì sẽ viết i ngắn nếu là từ thuần Việt : ỉ (eo), ì (à) ì (ạch), (béo) ị, (ầm) ĩ,... và y dài, nếu là từ Hán Việt: ý (kiến), (lưu) ý, y (sĩ), (chuẩn) y,...
- Nguyên âm đứng đầu âm tiết, có tổ hợp nguyên âm hoặc nguyên âm đôi, viết y dài: yêu (quý), yểu (điệu), yến (tiệc), yêng (hùng), huỳnh huỵch,...
- Trong các âm tiết nửa mở, có nhiều trường hợp thể hiện bằng hai con chữ i, y nhưng thực chất có sự khác biệt (do sự nhầm lẫn chính tả). Nếu là tổ hợp nguyên âm [wi], như trong các từ quy (tắc), (thâm) thuý, (ma) tuý, (xương) tuỷ, quỵ luỵ... thì viết y dài. Nếu là tổ hợp nguyên âm [uj], như trong các từ cúi (đầu), túi (quần), tủi (hổ), xúi (bẩy), (tàn) lụi... thì viết i ngắn.
Ở đây, có hai điều đáng lưu ý. Thứ nhất, việc viết i ngắn y dài cho các từ thuần Việt và Hán Việt chủ yếu là dựa trên thói quen, chứ hoàn toàn không có sự phân biệt về mặt ngữ âm (âm Hán Việt hay thuần Việt đều như nhau). Đó là một giải pháp tình thế và được thực hiện như một luật bất thành văn. Thói quen này đã đến độ nếu ta cứ khăng khăng gò về i ngắn thì ảnh hưởng tới thẩm mĩ, rất khó coi. Chẳng hạn, nếu ai viết là: i sĩ, lưu í, í kiến, kính iêu, iên tĩnh, sao i bản chính... có vẻ kì quặc, khó tiếp nhận. Thứ hai, trong một số trường hợp thuộc tên riêng thì không nên chuẩn hoá quá máy móc. Các tên như Nghiêm Đình Vỳ, Lý Thái Tổ, Nguyễn Dy Niên, Thuận Vy, Văn Trýnh, Huình Tịnh Của,... chẳng hạn. Đó là sở thích, dụng ý cá nhân, một mặt của vấn đề tên riêng cần được tôn trọng (Những cái tên khai sinh này còn có giá trị pháp lí trong mọi văn bản giấy tờ liên quan, như chứng minh thư, hộ chiếu, văn bằng chứng chỉ, chỉ dẫn thư mục,... Nếu viết khác đi (dù đọc không khác), cơ quan chức năng vẫn không chấp nhận).
Các đề xuất về chuẩn chính tả như vậy hoàn toàn dựa trên cơ sở ngữ âm tiếng Việt. Dĩ nhiên có tính đến sự thống nhất, hợp lí, giản tiện khi sử dụng. Chẳng hạn viết i ngắn thì vừa dễ nhận diện (gần với kí hiệu phiên âm quốc tế ), vừa dễ viết (chiếm ít diện tích, tiết kiệm một nét kéo xuống, trong in ấn cũng thuận tiện hơn).
Dĩ nhiên, mọi giải pháp (nhất là các giải pháp đối với chuẩn ngôn ngữ) không phải bao giờ cũng có thể áp dụng triệt để với mọi trường hợp (tiếng Pháp, tiếng Anh phổ cập là thế vẫn còn khá nhiều sự bất cập về văn tự phải chấp nhận). Nhưng về cơ bản, vấn đề chính tả nguyên âm đã được áp dụng khá triệt để đối với hệ thống sách giáo khoa trong trường phổ thông hiện nay. Nếu ta theo dõi các em học sinh tiểu học sẽ thấy rất rõ điều này. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng, 2003, tái bản lần 8) cũng tuân thủ đúng nguyên tắc này (Có thể đảm bảo hầu như không sai một trường hợp nào. Trung tâm Từ điển học (4 Ngõ Lý Thường Kiệt, Hà Nội) đã có thông báo kèm theo tất cả các cuốn TĐ, ai phát hiện ra một sai sót bất kì, trong đó có chính tả, sẽ được Trung tâm gửi tặng riêng 1 cuốn từ điển). Có lẽ dần dần, qua việc áp dụng và mở rộng cho mọi đối tượng bằng các quy định cụ thể, các hiện tượng sai chính tả như vậy sẽ dần đi vào nền nếp. Chính tả là một vấn đề vừa mang tính quy tắc, nhưng cũng lại là vấn đề thuộc về thói quen, thuộc phạm trù văn hoá. Phải làm quen, quan sát, rút kinh nghiệm nhiều lần thì mỗi người mới tự hình thành cho mình thói quen viết đúng chính tả. Trong lúc chưa thật thuần thục và chưa thật yên tâm, chúng ta nên có bên cạnh một cuốn từ điển chính tả (và cả Từ điển tiếng Việt nữa càng tốt) để tiện cho việc tra cứu, sử dụng. )